Bài viết chia sẻ kinh nghiệm, thủ thuật về Marketing Online, kinh doanh trực tuyến, kinh doanh online hiệu quả cho doanh nghiệp.SlovakiaMarketing.Com
Thứ Năm, 12 tháng 1, 2012
THÔNG BÁO LỊCH HỌC SAU TẾT NGUYÊN ĐÁN
Thời gian bắt đầu: ngày 07/02/2012.
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Hội.
Đây là một môn học rất hay, một khởi đầu mới cho sự hứng thú trong học tập.
Chúc các bạn một năm học mới với nhiều kết quả học tập như mong đợi.
BCS.
Kế hoạch trả nợ các lớp không chính quy năm 2012
- Căn cứ kế hoạch công tác của Khoa Đào tạo Tại chức năm 2012;
- Căn cứ tiến độ học tập thực tế của các lớp hệ không chính quy;
Khoa Đào tạo Tại chức thông báo về kế hoạch trả nợ học phần cho các lớp hệ không chính quy như sau:
1.Đối tượng: Sinh viên còn những học phần có điểm dưới 5.
2.Tổ chức thực hiện: Khoa Đào tạo Tại chức sẽ tổ chức 2 đợt đăng ký trả nợ học phần tổng hợp dành cho tất cả các khóa, các lớp hiện còn đang học hoặc đã tốt nghiệp nhưng còn trong thời hạn được phép trả nợ theo quy định của quy chế đào tạo:
-Đợt 1: từ ngày 20/02/2012 đến hết ngày 02/03/2012.
-Đợt 2: từ ngày 04/09/2012 đến hết ngày 14/09/2012.
-Lệ phí trả nợ:
•Diện tự ôn: 100.000đ/ĐVHT.
•Diện học lại: 150.000đ/ĐVHT (Khoa sẽ tổ chức lớp học lại cho những môn có số lượng đăng ký trên 30 sinh viên.
-Danh sách thi, lịch thi trả nợ chi tiết sẽ được thông báo trên website (http://khoataichuc.ufm.edu.vn) sau 01 tuần kể từ ngày cuối cùng đăng ký của mỗi đợt.
3.Địa điểm đăng ký và thi trả nợ:
a. Địa điểm đăng ký: Khoa Đào tạo Tại chức, trường Đại học Tài chính – Marketing - Số 343/4 Nguyễn Trọng Tuyển, P.1, Q.Tân Bình.
b. Địa điểm thi trả nợ: Cơ sở 2C Phổ Quang, P.2, Q.Tân Bình.
Thông báo chi tiết về từng đợt thi trả nợ, nhà trường sẽ thông báo sau.
Thứ Hai, 9 tháng 1, 2012
KHÓA HỌC SEO MASTER HÀ NỘI - 08
Một số cảm nhận của học viên:
Hội đồng Anh Việt Nam
Cảm ơn iNET rất nhiều.
Mobile Cute
Ngoài ra: lớp học thân thiện, trợ lý nhiệt tình, MC xinh đẹp, dễ gần.
- Trợ giảng nhiệt tình, thân thiện.
- MC tuyệt vời, bớt nhiều stress khi MC xuất hiện.
- Nhất định còn tham gia nhiều khóa học tại đây.
Khóa học đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong việc quảng bá website của tôi.
Cảm ơn iNET.vn rất nhiều.
Asian Travel and Tours
Cảm ơn iNET và các cộng sự.
Xin chân thành cảm ơn.
Ngoài việc bổ sung kiến thức đây còn là nơi giao lưu, gặp gỡ với rất nhiều người, giúp tôi mở mang thêm nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống.
Khóa học iNET SEO Master rất bổ ích. Tôi đã học được nhiều kiến thức về SEO cũng như Marketing Online mà trước đây thường phải tự mày mò.
Cảm ơn iNET đã tổ chức khóa học này và hy vọng sẽ có nhiều khóa học tương tụ để chúng tôi giao lưu và trao đổi nhiều hơn.
Chân thành cảm ơn.
Chủ Nhật, 8 tháng 1, 2012
Bán Hàng và Nghệ Thuật Đặt Câu Hỏi
Bên ngoài nhìn vào, có vẻ như người bán hàng không làm điều gì đặc biệt. Anh ta chỉ đưa ra những câu hỏi, còn khách hàng tự kể những món đồ này cần thiết như thế nào đối với ông ta. Có thể nói, đây là một ví dụ điển hình về việc sử dụng quy trình SPIN do người sáng lập ra nhóm nghiên cứu Huthwaite Inc. - Neil Rackham, đưa ra.
SPIN: Tình hình (Situation), vấn đề (Problem), gợi ý (Implication) và định hướng (Need-payoff). SPIN là chữ cái đầu tiên của bốn dạng câu hỏi này bằng tiếng Anh.
Không gây sức ép
Để thuyết phục được khách hàng trong một thương vụ mua bán lớn không dễ dàng chút nào. Gây sức ép không phải là một sự lựa chọn tối ưu. Tuy nhiên, bạn có thể sử dụng quy trình SPIN làm đẩy nhanh tiến trình và đưa khách hàng đi đến quyết định có lợi cho mình.
Hiển nhiên, bán hàng cũng có năm bảy loại và những quy trình được sử dụng để bán những đồ lặt vặt không giống với những mặt hàng có giá trị. Những “vụ mua bán lớn” có những đặc điểm riêng. Đây chưa chắc đã phải là những thương vụ trị giá hàng tỷ đô la, mà có thể chỉ là việc bán những đồ vật có giá trị đối với người mua. Đối với ai đó, có thể chỉ là cái tủ lạnh. Trong những trường hợp này, để đi đến quyết định người mua thường đi lại gặp gỡ với người bán hàng nhiều lần.
Để đưa ra quy trình SPIN, Neil Rackham đã phải quan sát trong nhiều năm hành vi của những người bán hàng đã thành công trong những thương vụ lớn. Về bản chất SPIN – là nghệ thuật đặt những câu hỏi cần thiết theo một trình tự nhất định. Theo Neil Rackham, những người bán hàng thành công thường tích cực sử dụng bốn dạng câu hỏi: tình hình (Situation), vấn đề (Problem), gợi ý (Implication) và định hướng (Need-payoff). SPIN là chữ cái đầu tiên của bốn dạng câu hỏi này bằng tiếng Anh.
Rackham đã đi ngược lại với phương pháp bán hàng gây sức ép rất phổ biến ở Mỹ. Theo ông, đầu tiên người bán hàng phải chăm chú nghe người mua nói và đặt những câu hỏi đúng chứ không phải tấn công khách hàng - những người còn chưa hình dung ra sản phẩm/dịch vụ này cần thiết như thế nào đối mình - với những câu hỏi kiểu như: “Khi nào thì có thể mang đến cho anh/chị? Hôm nay hay ngày mai?”.
“Tôi kinh doanh những mặt hàng lặt vặt trong vài năm. Đó là những chi tiết trong các đồ điện tử, bóng đèn, pin. Khi tôi quyết định chuyển hướng kinh doanh sang bán những mặt hàng điện tử sinh hoạt, thì những nhân viên của tôi vấp phải khó khăn. Cách bán hàng gây sức ép không hiệu quả", giám đốc nhân sự một hệ thống các cửa hàng điện tử nói, "Chúng tôi nghiên cứu quy trình SPIN và tập huấn cho các nhân viên của mình. Trong ba tháng đầu tiên, năng suất bán hàng tăng từ 5-8%. Nếu so sánh với giai đoạn bán hàng trước, thì kết quả này là chấp nhận được đối với chúng tôi”.
Thu thập thông tin
Dạng câu hỏi thứ nhất được các nhân viên bán hàng sử dụng trong những cuộc gặp gỡ đầu tiên với khách hàng là câu hỏi tình hình. Mục đích của chúng – thu nhận thông tin về khách hàng. Trước khi đi vào phần chính của cuộc hội thoại, cần phải tìm hiểu thông tin về người mua và công việc của anh ta.
Ví dụ, nếu đây là một vụ mua bán căn hộ: “Anh/chị đã sống ở thành phố này lâu chưa? Anh/chị đã bao giờ mua căn hộ chưa? Diện tích như thế nào là phù hợp với anh/chị?”. Còn nếu bạn là chủ một công ty đào tạo kinh doanh: “Công ty của anh/chị hoạt động trong lĩnh vực nào? Có bao nhiêu nhân viên? Những ai là khách hàng của anh/chị? Ai là đối thủ cạnh tranh?”.
Nguồn thông tin sơ bộ không nhất thiết là từ cuộc nói chuyện trực tiếp mà có thể là những hợp đồng, các bản báo cáo, hoặc bất cứ một tài liệu cần thiết nào khác. Neil Rackham viết trong cuốn sách “SPIN: Chiến lược tiếp cận với khách hàng trong những thương vụ mua bán lớn” rằng: phải cẩn trọng khi sử dụng những câu hỏi tình hình, vì nếu đặt quá nhiều câu hỏi, thì có thể tạo cho khách hàng cảm giác buồn chán, dị ứng thậm chí là phản kháng.
Ngoài ra, tốt nhất câu hỏi tình phải được dùng với đúng “đối tượng”. Đó chưa chắc đã phải là tổng giám đốc hoặc thư ký, bạn phải tìm trong công ty khách hàng những người sẵn sàng nghe và biết rõ về vấn đề bạn định hỏi.
Sau khi, tình hình đã được làm rõ, bạn có thể sử dụng dạng câu hỏi tiếp theo: câu hỏi vấn đề.
Tìm kiếm vấn đề
Những người bán hàng chưa có kinhnghiệm thường đặt ra hàng loạt các câu hỏi tình hình đối với các khách hàng tiềm năng và rất sợ câu hỏi vấn đề. Và thông thường, họ thường thay thế bằng việc giới thiệu dông dài về sản phẩm/dịch vụ của mình. Điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả của cuộc gặp gỡ.
Thực ra, người bán hàng cần phải làm sáng tỏ: khách hàng còn không hài lòng với sản phẩm/dịch vụ ở những điểm nào. Vì vậy, ở đây không thể thiếu những câu hỏi vấn đề. Ví dụ: “Anh/chị có hài lòng với sản phẩm/dịch vụ đang được sử dụng không?”.
Nếu là một thương vụ không lớn lắm, chỉ cần một cuộc gặp gỡ là đủ, thì càng nhiều câu hỏi vấn đề bao nhiêu càng dễ bán được hàng bấy nhiêu. Còn trong một vụ mua bán có giá trị lớn, thì số lượng câu hỏi lại không ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng. Trong trường hợp này, người bán hàng có nhiệm vụ thu thập từ người mua thông tin về những điều họ chưa được hài lòng, những khó khăn của họ, hay nói cách khác quan điểm của khách hàng về tình hình thực tại xung quanh sản phẩm/dịch vụ mà bạn định bán.
Bên cạnh đó, cần tránh những câu hỏi vấn đề vô vị: “Anh/chị có hài lòng với mức độ bán hàng hiện nay của công ty mình không?”, vì bạn có thể sẽ nhận được những câu trả lời mang nặng sắc thái cảm xúc: “Thật khủng khiếp, chúng tôi đang không biết, cần phải làm gì bây giờ!”, hoặc một câu trả lời không biểu lộ điều gì: “Tất nhiên là có vấn đề, nhưng nói chung thì mọi việc không có gì đáng phàn nàn”.
Cũng dễ hiểu, không phải người mua nào cũng sẵn sàng chia sẻ với nhân viên bán hàng những vấn đề của mình. Để đạt được điều này, phải biết cách gây thiện cảm với khách hàng ngay từ đầu cuộc nói chuyện. Trong bất cứ khoảng khắc của cuộc hội thoại, nếu xuất hiện thông tin rằng có vấn đề tồn tại, thì phải lập tức chuyển sang câu hỏi gợi ý.
Gợi ý
Giai đoạn thứ ba là công đoạn phức tạp nhất. Sau khi nhận được tín hiệu rằng có vấn đề tồn tại, người bán hàng sử dụng phương pháp SPIN cần phải tạo ra cho khách hàng sự nhận thức rõ ràng rằng: vấn đề nghiêm trọng đến nỗi có thể ảnh hưởng đến công ty của anh ta trong tương lai, hoặc thậm chí tương lai của công ty anh ta sẽ thật tồi tệ. Với sự trợ giúp của các câu hỏi gợi ý, nhân viên bán hàng buộc khách hàng cảm thấy sự khủng khiếp của những hậu quả.
Cấu trúc của những câu hỏi gợi ý có thể như sau: “Nếu để vấn đề này tiếp diễn, thì liệu công ty anh/chị có thể sẽ phải gánh chịu những hậu quả nào?”. Có nghĩa, bạn giúp khách hàng liên hệ đến những hậu quả tức thời nếu vấn đề không được giải quyết.
Neil Rackham kể rằng chính ông cũng từng bị “sập bẫy” bởi những câu hỏi gợi ý trong quy trình của mình. Và kết quả là ông đã mua một chiếc ô tô mới. Neil Rackham sử dụng chiếc ô tô midl-class được vài năm. Một lần, ông gặp một người bạn, người này hỏi ông: “Anh đã sử dụng chiếc ô tô này lâu chưa? Chắc hẳn sau một thời gian sử dụng dài như thế, chiếc ô tô thường xuyên gặp sự cố?”. “Đôi khi”, Neil trả lời. “Có bao giờ vì thế mà anh đến chậm trong một buổi gặp gỡ quan trọng nào đó không?”. Neil bực tức nhớ lại một trường hợp như vậy. “Thế đã bao giờ vì đến chậm mà hợp đồng kinh doanh của anh bị hỏng chưa? Khi mất hợp đồng kinh doanh, kinh tế gia đình anh có vì thế mà bị ảnh hưởng không?”. Và sau khi kết thúc cuộc nói chuyện, Neil thấy có nhu cầu cần phải lập tức đến salon ô tô, vì cảm thấy nếu không có một chiếc ô tô mới, thì mạng lưới khách hàng, thu nhập, và thậm chí cả gia đình ông có thể sẽ bị đe dọa.
Thêm nữa, chính vì những câu hỏi gợi ý này mà nhiều nhân viên bán hàng không thích sử dụng quy trình SPIN. Theo họ, chúng có thể đẩy khách hàng đến trạng thái “tất cả đều tồi tệ, cuộc sống đã chấm hết”, mà điều này thì không được hợp đạo đức lắm.
Điểm chốt
Và cuối cùng khi khách hàng nhận thấy toàn bộ thảm họa trong vấn đề của mình, thì một nhân viên bán hàng chưa nắm vững quy trình SPIN hoặc chưa có kinh nghiệm lắm sẽ phản ứng như thế nào? Chắc hẳn, anh ta sẽ sung sướng giới thiệu sản phẩm/dịch vụ của mình với tất cả những ưu điểm của nó. Điều này cũng không hoàn toàn đúng.
Theo các nghiên cứu của nhóm Huthwaite Inc., thì cuộc gặp gỡ giữa nhân viên bán hàng và khách hàng sẽ hiệu quả hơn nếu khi nói chuyện, bằng một loạt các câu hỏi định hướng, nhân viên bán hang gợi ý khách hàng phải tự nói về những ưu điểm và lợi ích của thương vụ mua bán này. Lấy vì dụ về vụ mua ô tô trên, người bạn của Neil Rackham có thể hỏi: “Thế liệu với một chiếc ô tô mới có giải quyết được những vấn đề của anh không? Anh nghĩ thế nào, anh sẽ được những gì? Chiếc ô tô mới có thể giúp được gì anh trong cuộc sống không?”.
Nói chung, thì số lượng câu hỏi dạng này hoặc dạng khác phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Sẽ không thông minh nếu đưa ra các câu hỏi tình hình khi khách hàng cảm thấy khó chịu vì bị soi mói. Nhưng kỹ năng cảm nhận tình thế, làm cho khách hàng thấy thoải mái nhất, chỉ có thể có được cùng với kinh nghiệm và thời gian.
Những câu hỏi dẫn đến hành động mua hàng
Câu hỏi tình hình
– Công ty anh/chị có bao nhiêu nhân viên?
– Anh/chị đang sử dụng thiết bị nào?
– Anh/chị đã mua hẳn thiết bị này hay đang thuê?
– Anh/chị đã sử dụng thiết bị này lâu chưa?
– Ai là người chịu trách nhiệm về chất lượng của thiết bị được mua?
Câu hỏi vấn đề
– Anh/chị có hài lòng với mức lợi nhuận hiện tại của công ty không?
– Chắc với thiết bị này khó lòng đạt được định mức công việc cần phải có sự chính xác cao như thế này?
– Sau một thời gian sử dụng thiết bị lâu như thế, anh/chị đã gặp phải trục trặc nào chưa?
– Sự trục trặc nào khó giải quyết nhất?
Câu hỏi gợi ý
– Vì những trục trặc này chắc lợi nhuận của công ty sẽ bị ảnh hưởng?
– Vì lợi nhuận giảm, anh/chị có buộc phải giảm bớt tiền thưởng hoặc quyết định tăng lương cho nhân viên không?
– Điều này chắc làm các nhân viên không được hài lòng?
– Trong trường hợp như thế, liệu họ có bỏ đi tìm việc khác không?
Câu hỏi định hướng
– Nếu mua thiết bị này thì có giúp ích được gì cho anh/chị không?
– Tại sao điều này lại có lợi?
– Anh/chị nói gì về việc tăng chất lượng sản phẩm/dịch vụ?
– Có bõ công không, nếu các sự cố ít đi và chi phí cho lĩnh vực này sẽ giảm tới 10%?
– Sếp của anh/chị có thể quan tâm đến điều gì ở những thiết bị mới?
Nguồn tin: kynang.edu.vn
Kỹ năng marketing trực tuyến
Sau đây là một số nguyên tắc để thu hút sự chú ý của khách hàng đến trang web của bạn
· Sử dụng các công cụ tìm kiếm đa chức năng.
· Cung cấp cho khách hàng các địa chỉ website mới của bạn, cho phép họ truy cập vào trang web của bạn một cách thường xuyên.
· Công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng về website của mình
· Thiết lập các đường dẫn tới các website tuơng thích với website của bạn, chẳng hạn những website về cùng một thị trường định hướng giống như bạn và không cạnh tranh với website của bạn .
· Viết các bài báo, bài bình luận, những trang web mà ngành của bạn thường hay quan tâm .
· In địa chỉ web, E-mail trên các đồ văn phòng phẩm và các cardvisit của công ty.
· Quảng cáo trang web trên các phương tiện thông tin ở địa phương.
· In địa chỉ trang web trong cuốn những trang vàng địa chỉ Internet.
· Thông báo cho những người đại diện bán hàng về website mới.
· Ðưa ra các mức giảm giá cho những người mua hàng trực tuyến.
· Gửi các bưu ảnh hài hước về trang web của mình.
Như những nguyên tắc trên đã chỉ ra, bạn nên quảng cáo website của mình thông qua các hình thức quảng cáo truyền thống và thông qua hình thức quảng cáo sử dụng các kết nối tương hỗ. Nếu khách hàng quan tâm đến nhưng thông tin của bạn, họ sẽ đánh dấu địa chỉ và truy cập vào lần sau.
2. Những nhân tố giúp cho việc bán các sản phẩm, dịch vụ có hiệu quả trên mạng.
· Sử dụng những hình thức đặc biệt để mô tả sản phẩm và dịch vụ. Nếu có thể mô tả sản phẩm và dịch vụ của mình bằng các hình thức đặc biệt, thì nên áp dụng hình thức đó trên mạng bởi vì tìm kiếm trên mạng dễ dàng hơn nhiều nhờ sự hỗ trợ của các phương tiện tìm kiếm đặc biệt. Bạn cũng có thể quảng cáo cho sản phẩm và dịch vụ bằng sự kết hợp của nhiều hình thức khác nhau mà khách hàng có thể sẽ áp dụng khi tìm kiếm các loại sản phẩm của mình với điều kiện là những hình thức đó sẽ xuất hiện thường trực trên các trang web mà bạn yêu cầu những phương tiện tìm kiếm đó liệt kê lên.
· Sử dụng chính sách định giá cạnh tranh. Nơi nào trên Internet hỗ trợ khách hàng so sánh giá của những mặt hàng cùng loại thì những mặt hàng có giá thấp nhất sẽ bán chạy nhất. Ðồng thời đối với hầu hết các sản phẩm, những mức giá trực tuyến có thể sẽ phải thấp hơn giá trên các cửa hàng nhằm tạo nên một sự ưu đãi để tạo sự tin tưởng của khách hàng đối với các nhà bán lẻ trên mạng, một phần do thiếu đi sự gặp gỡ giữa các cá nhân trong các giao dịch, và để bù lại việc khách hàng không thể mang hàng về cho mình.
· Yếu tố hữu hình: Khách hàng vẫn muốn cầm nắm, xem xét, nếm, thử hoặc nói chuyện với một ai đó trước khi mua hàng. Người bán nên cung cấp các sản phẩm của mình cho các cửa hàng bán lẻ hoặc dự trữ các sản phẩm đó ở những nơi mà khách hàng có thể đến để cận mục sở thị trước khi quay lại mạng để tiến hành mua bán.
· Sự đồng nhất của các mặt hàng. Các mặt hàng sản xuất hàng loạt thường dễ bán hơn so với các mặt hàng thủ công hoặc sản xuất theo phương pháp truyền thống. Những mặt hàng sản xuất hàng loạt thường có sự nhất quán hơn về các đặc điểm của mình, có chi phí sản xuất dễ tính hơn, và được nhiều người biết hơn.
· Những yêu cầu gián tiếp. Khách hàng sẽ có khuynh hướng mua các mặt hàng chưa có nhu cầu hiện tại trên mạng hơn là các mặt hàng để sử dụng ngay. Những nhà sản xuất có khả năng lập các kế hoạch sản xuất định trước, các kế hoạch xếp hàng và giao hàng sẽ có cơ hội lớn hơn trong việc sử dụng Internet để xúc tiến bán hàng.
· Sự hiểu biết của khách hàng về sản phẩm. Người ta cho rằng thương mại trực tuyến giữa các doanh nghiệp (B2B) sẽ tăng nhanh hơn thương mại trực tuyến giữa doanh nghiệp và khách hàng (B2C) (Trừ trường hợp đối với các công ty lớn như Amadon, Auto Bytel , CD Now And Dell). Lý do là không giống như phần lớn các khách hàng, các doanh nghiệp không lạ gì những đặc điểm của mặt hàng mà họ cần và vì thế cảm thấy thoả mái hơn trong việc đặt hàng trên mạng.
· Các mặt hàng được mua bán thường xuyên. Những mặt hàng được tiêu chuẩn hoá được mua bán thường xuyên (đồ gia dụng, quần áo trẻ em, đồ văn phòng phẩmv.v...) thường quen thuộc với khách hàng và vì thế dễ dàng đặt hàng trên mạng hơn. Những giao dịch này sẽ tiết kiệm thời gian và tránh cho họ thoát khỏi sự nhàm chán khi mua bán.
3. Những dịch vụ có thể triển khai được trên mạng.
Những dịch vụ sau đây là những dịch vụ có thể triển khai thành công trên mạng.
· Kế toán
· Quảng cáo
· Giáo dục đào tạo mang tính thương mại
· Các phần mềm và dịch vụ máy tính
· Môi giới hải quan
· Các dịch vụ tài chính, y tế, chăm sóc sức khoẻ từ xa
· Bảo hiểm
· Nghiên cứu thị trường.
· Tìm kiếm lao động
· Thông tin và truyền thông
· Các dịch vụ lữ hành
· Dịch thuật
· Thiết kế và bảo trì trang web
· Tư vấn quản lý
· Giáo dục
· Dịch vụ in ấn và đồ hoạ
· Các dịch vụ đấu giá
· Các dịch vụ viết thuê
Chỉ cần đảo qua một số trang web tìm kiếm chủ yếu như Yahoo (www.yahoo.com) hoặc là Google (www.google.com) có thể thống kê ra một loạt các dịch vụ thuộc mọi thể loại khác nhau đang được cung cấp trên mạng.
Sự thành công của một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên mạng cũng phụ thuộc vào các yếu tố thông thường; chẳng hạn mức độ sản phẩm đó đáp ứng nhu cầu thị trường như thế nào. Tuy nhiên, các nhà cung cấp dịch vụ lại có duyên với Internet bởi vì các sản phẩm của họ có khuynh hướng được xử lý bằng kỹ thuật số. Phần lớn các nhà cung cấp dịch vụ hoạt động thu thập, lưu trữ, điều khiển và truyền bá thông tin .
Các thông tin được số hoá có thể dễ dàng thu thập và truyền tải ở mức chi phí thấp hơn thông qua Internet so với các phương tiện khác.Các dịch vụ viễn thông cũng thu hút được rất nhiều khách hàng thông qua Internet. Tiếng nói thông qua các nhà cung cấp cổng Internet sử dụng công nghệ IP để truyền tiếng nói điện thoại thông qua các kênh dữ liệu là một lĩnh vực đang tăng trưởng mạnh nhất khắp nơi trên thế giới.
4. Những sản phẩm mà khách hàng có thể tìm mua trên mạng .
Nghiên cứu của Forester Research 1998 đã chia thị trường bán lẻ trực tuyến thành 3 loại mua bán: Hàng hoá tiện dụng, hàng hoá và dịch vụ nghiên cứu bổ sung và hàng hoá thông thường. Những hàng hoá tiện dụng được mua bán như là sách, âm nhạc, quần áo và hoa . Người ta dự tính là sự đa dạng của hàng hoá tăng lên, sự xuất hiện của dịch vụ gửi hàng và sự xúc tiến bán lẻ rộng rãi sẽ làm tăng sự thông dụng của việc buôn bán hàng hoá này trên mạng. Những hàng hoá bổ sung được mua bán phổ biến hơn, chẳng hạn như hàng tạp hoá, hàng cá nhân, những mặt hàng này tuy có giá thành trung bình nhưng lại là thiết yếu do trở ngại từ việc thiếu một hệ thống phân phối khả dĩ và sự bắt nhịp chậm chạp về Thương mại điện tử của khách hàng. Cho nên người ta đánh giá thị trường này chủ yếu phát triển trong một số lĩnh vực nhất định như hàng đặc dụng, hàng dược phẩm. Chi phí của hàng hoá và dịch vụ liên quan đến nghiên cứu cao hơn nhiều so với hai chủng loại hàng hoá trên và là những mua bán được sắp đặt trước theo khuynh hướng thông tin; Loại này bao gồm vé máy bay, máy tính , ô tô. Việc cung cấp các nguồn thông tin trực tuyến và doanh số của loại này sẽ có xu hướng tăng lên đáng kể.
Những sản phẩm mà khách hàng có thể mua qua mạng .
· Các sản phẩm máy tính.
· Sách
· Ðồ điện tử
· Các tour du lịch
· Các tạp chí thường kỳ v.v...
Người ra dự tính rằng các lĩnh vực tăng trưởng chính trong Thương mại điện tử sẽ là truyền thông toàn cầu và các ngành công nghiệp giải trí, du lịch (bao gồm khách sạn và hàng không), các dịch vụ chuyên nghiệp và tài chính, bảo hiểm và bán lẻ. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng những nhân tố thành công của các sản phẩm nhất định bao gồm các yếu tố: thương hiệu mạnh, sản phẩm đặc trưng và chào giá cạnh tranh.
Cần lưu ý rằng chưa có một nghiên cứu hoàn chỉnh nào về khía cạnh tâm lý của khách hàng trên mạng để xác định tại sao một số mảng khách hàng hoặc doanh nghiệp lại mua sản phẩm và dịch vụ này trong khi số khác thì không. Vào tháng 7/1998 trường Ðại học tổng hợp Wayne ở thành phố Chicagô thuộc tiểu bang Michigant đã tiến hành khảo sát 113 công ty, khoảng 87% số đó cho biết rằng họ không mua hàng hoá và dịch vụ trong 6 tháng trước đó. Có vẻ như rằng sự e ngại của khách hàng, ở một mức độ nhỏ hơn là của doanh nghiệp để tìm kiếm và mua hàng hoá và dịch vụ qua mạng đã vượt ra ngoài những lo ngại về vấn đề an ninh, tài chính của các giao dịch. Một nghiên cứu giới hạn đã được tiến hành để tìm ra những nhân tố này. Một câu hỏi khá thú vị là mức độ của việc thay đổi thói quen mua hàng của khách hàng và doanh nghiệp. Có lẽ các doanh nghiệp sẽ dễ dàng thay đổi hơn để cắt giảm chi phí, cải thiện thời gian giao hàng, liên lạc với nhà cung cấp, và đơn giản chỉ là tăng hiêu quả của việc đặt hàng, gửi hàng và giao hàng . Hơn nữa có lẽ hình thức mua bán giữa các doanh nghiệp B2B tăng lên bởi vì nó có đặc điểm khác với những thói quen mua hàng cá nhân truyền thống. Ðiều quan trọng là phải đặt ra câu hỏi có phải do đặc trưng của người mua hàng muốn trực tiếp đi dạo qua các gian hàng, các cửa hiệu, các trung tâm thương mại, các cửa hàng bách hoá hay là họ muốn mua hàng qua mạng để tiết kiệm thời gian cho những hoạt động khác như thể thao, giải trí,v.v...
Sưu tập Internet
Vài kinh nghiệm triển khai email marketing
Trong thời gian làm việc tại công ty cũ, tôi được giao triển khai chương trình chăm sóc khách hàng qua email. Sau hơn một năm thực hiện, xin phép chia sẻ vài kinh nghiệm thực tế, rất mong cộng đồng đóng góp thêm ý kiến để các marketers có nhiều thông tin cho chiến dịch marketing của mình.
Những sai lần phổ biến khi triển khai email marketing:
Thông tin vô giá trị
Đây là điều ai cũng biết nhưng chẳng mấy ai rút kinh nghiệm. Nguyên nhân lớn nhất khiến email marketing bị đánh đồng với spam là nội dung không hề mang lại tí tẹo lợi ích nào cho khách hàng. Không bao giờ có chuyện 100% database khách hàng đều có nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ mà bạn giới thiệu. Và chắc chắn là những khách hàng đó cũng nhận được rất nhiều email của các công ty khác mỗi ngày. Vậy lý do gì để họ đọc và nhớ email của bạn? Please, trong chốc lát, hãy đừng nghĩ đến chuyện "xeo xiếc" (sale) gì cả, hãy gửi một nội dung thật sự có giá trị cho khách hàng!
Nội dung không rõ ràng
Cái gì dễ hiểu hơn? Một tấm hình Mai Phương Thuý hay một bức tranh trừu tượng? Khách hàng không có nhiều thời gian cho việc đọc email, nhất là khi đang ở thế "bị sale". Vậy nên chắc chắn một email với tiêu đề chung chung, câu chữ dài thườn thượt, văn phong lủng củng, thiết kế rắc rối,… sẽ bị quăng ngay vào thùng rác.
Sale lộ liễu
Cho đến thời điểm này, tôi tin rằng bất kỳ ai dùng email đều biết tỏng, dù có gọi là newsletter hay ezine thì đều nhằm để sale. Khi mà khách hàng đã đi guốc lộp cộp trong bụng bạn thì đừng dại mà "dụ dỗ" họ một cách thô thiển. Từ từ, tà tà tiến tới, cung cấp thông tin đầy đủ, rõ ràng và nhất là đừng ra lệnh kiểu "mua ngay", "đăng ký ngay", "tham gia ngay",… khi chưa qua giai đoạn "làm quen".
Quản lý database kém
Trái tim của mọi chiến dịch email marketing là database khách hàng. Bạn cần phải liên tục cập nhật, sàng lọc, ghi nhận phản hồi. Tôi đã từng bị sai lầm như thế này: một khách hàng yêu cầu huỷ dịch vụ nhưng do tôi không cập nhật database nên vẫn nhận được email. Khách hàng này gửi email phàn nàn và cc cho tất cả bạn bè của mình. Thật không may, rất nhiều người trong số đó cũng trong database của chúng tôi! Vậy là trong chớp mắt, mấy chục khách hàng đã bỏ đi!
Mất gì khi chiến dịch email marketing không hiệu quả:
Lại đổ chi phí vào các kênh marketing truyền thống
Vỏ bọc "tiếp cận nhanh chóng, mọi lúc mọi nơi và tiết kiệm chi phí" của email marketing quá hào nhoáng khiến người ta đặt quá nhiều kỳ vọng. Và khi không thấy hiệu quả như mong muốn, họ nhìn email marketing với "con mắt hình viên đạn". Và rồi thay vì tiết kiệm, họ dồn hết ngân sách marketing cho những kênh truyền thống.
Án treo vô thời gian của khách hàng
Từ khi tìm hiểu và tự tay thực hiện email marketing, tôi rất thích nút "Report Spam" hay "Spam" của Gmail và Yahoo Mail. Chức năng này ví như cái búa quan toà sử dụng khi tuyên án. Khi bản án "spam" được khách hàng đưa ra, rất khó để xoá, cho dù chính khách hàng đã hạ cố vào thùng rác móc bạn ra!
Quá mù ra mưa
Khi triển khai chương trình của mình, tôi nhận ra người Việt Nam mình tương đối dễ chấp nhận email lạ (mặt trái là không hề đọc email đó với sự nghiêm túc và cẩn thận). Đặc điểm này có thể giúp marketer tiếp cận dễ dàng hơn, nhưng không có nghĩa là khách hàng sẽ đón nhận "thượng vàng hạ cám". Nếu không trân trọng cơ hội thì chắc chắn sẽ "mất cả chì lẫn chài".
Uy tín sụp đổ
Ai cũng biết email lan truyền rất nhanh. Đó là thế mạnh, nhưng cũng là quyền lực của khách hàng mà marketer phải lưu ý. Như sai lầm mà tôi đã phạm phải ở trên, chỉ trong ít phút, mấy chục khách hàng đã biết tôi không tôn trọng yêu cầu huỷ dịch vụ của họ. Điều gì sẽ xảy ra nếu một trong số khách hàng đó quen biết với một blogger đình đám cỡ như Tắc kè, ANDRE hay Bố Cu Hưng?
(Nguồn: sưu tầm)
Thứ Tư, 4 tháng 1, 2012
Thứ Ba, 3 tháng 1, 2012
Thông báo nộp chứng chỉ ngoại ngữ đối với sinh viên các lớp ĐHK6 và LTĐHK6 đợt 2 hình thức VLVH
Thông báo nộp chứng chỉ ngoại ngữ đối với sinh viên các
lớp ĐHK6 và LTĐHK6 đợt 2 hình thức VLVH
Khoa Đào tạo Tại chức thông báo đến sinh viên các lớp Đại học khóa 6 đợt 1 và Liên thông ĐH khóa 6 đợt 2 hình thức VLVH về việc nộp chứng chỉ ngoại ngữ như sau:
1. Đối tượng: Là sinh viên thuộc các lớp sau:
a. Bậc Đại học VLVH khóa 6 (4,5 năm): ĐHK6-KT1, ĐHK6-KT2, ĐHK6-NH1, ĐHK6-NH2, ĐHK6-MA1, ĐHK6-MA2, ĐHK6-MA3, ĐHK6-QT1, ĐHK6-QT2, ĐHK6-QT3, ĐHK6-QT4, ĐHK6-QT5, ĐHK6-QT6.
b. Liên thông bậc Đại học VLVH khóa 6 – đợt 2 (1,5 năm): LTĐHK6-KT2, LTĐHK6-QT2.
2. Yêu cầu:
a. Đối với bậc Đại học: Chứng chỉ tiếng Anh tối thiểu trình độ A, TOEIC 300 hoặc tương đương – còn thời gian hiệu lực là 2 năm tính đến ngày 31/08/2012.
b. Đối với Liên thông bậc Đại học:
- Chứng chỉ tiếng Anh tối thiểu trình độ A, TOEIC 300 hoặc tương đương – còn thời gian hiệu lực là 2 năm tính đến ngày 31/05/2012.
- 02 tấm hình 3x4 phải giống nhau, mặc áo có cổ sáng màu, thời gian chụp không quá 06 tháng (hình được sử dụng để làm hồ sơ tốt nghiệp).
c. Quy định về chứng chỉ ngoại ngữ:
- Các chứng chỉ phải được sao y công chứng hợp lệ.
- Chứng chỉ A tiếng Anh phải theo mẫu phôi chứng chỉ của Bộ GD&ĐT và được cấp bởi trường Đại học Tài chính – Marketing hoặc các trường Đại học chuyên ngữ sau: Đại học KHXH&NV TP.HCM, Đại học Sư phạm TP.HCM, Đại học Sư phạm Hà Nội.
Khoa Đào tạo Tại chức sẽ không nhận bất kỳ trường hợp nào không đúng các quy định trên.
3. Thời gian và địa điểm nộp: Sinh viên nộp cho Ban cán sự lớp; Sau đó lớp trưởng tập hợp và nộp cho Khoa Đào tạo Tại chức trước ngày 07/09/2012
4. Tổ chức thực hiện:
- Đối với các lớp bậc Đại học VLVH khóa 6: chứng chỉ ngoại ngữ là học phần bắt buộc để xét điều kiện học tiếp, ngừng học và thôi học. Những sinh viên không nộp sẽ không được xét điều kiện học tiếp.
- Đối với các lớp Liên thông bậc Đại học VLVH khóa 6 – đợt 2:
o Khi nộp chứng chỉ sinh viên phải kiểm tra lại các thông tin cá nhân như: Họ tên, ngày tháng năm sinh, nơi sinh, ghi rõ thông tin liên lạc, dán 2 tấm hình 3x4 theo quy định và ký tên vào danh sách nộp chứng chỉ. Nếu sinh viên không kiểm tra đối chiếu các thông tin, mọi sai sót sau này sinh viên hoàn toàn chịu trách nhiệm.
o Ngoài kết quả học tập, chứng chỉ ngoại ngữ là điều kiện bắt buộc để xét điều kiện dự thi tốt nghiệp. Do đó, những sinh viên nộp chứng chỉ sau thời điểm Nhà trường xét điều kiện dự thi tốt nghiệp lần 1 sẽ được đưa vào xét ở các đợt thi sau do Nhà trường tổ chức.
o Khoa chỉ nhận khi sinh viên nộp đầy đủ cả bản sao chứng chỉ ngoại ngữ và 02 tấm hình 3x4.
- Khoa Đào tạo Tại chức sẽ tổ chức việc thẩm tra tính hợp pháp của chứng chỉ ngoại ngữ. Những trường hợp sinh viên có chứng chỉ không hợp pháp sẽ không được xét học tiếp hoặc không cấp bằng tốt nghiệp cho sinh viên.
Danh sách làm thẻ sinh viên (tt)
Thứ Hai, 2 tháng 1, 2012
Hình ảnh tiệc cuối năm của lớp
Một năm học đã qua, chúng ta đã được sống cùng nhau tại mái trường mang tên ĐH Tài Chính-Marketing, những thăng trầm trong lớp học cũng đủ để chúng ta nhìn lại và hiểu nhau hơn, những lúc vui, những lúc buồn, những lúc giận hờn vu vơ cũng đủ làm cho chúng ta biết quan tâm và chia sẽ lẫn nhau. Nếu không có những thử thách ngày hôm nay, chúng ta không ngồi đông đủ tại đây để hòa mình vào không khí tươi vui như thế này.- MC Bích Liên
Và xin chúc mừng sinh nhật tháng 12 của các MA3's:
1. Trần Huỳnh Yến Linh- 10/12
2. Phùng Thị Ái Ly- 16/12
3. Nguyễn Minh Huy- 17/12
4. Phạm Nhật Hoan- 25/12
5. Nguyễn Ngọc Phương Thảo- 28/12
6. Nguyễn Hồ Thanh Tùng- 30/12
Nhiều lúc sóng gió trong cuộc đời, tôi biết mình không lẻ loi. Bạn vẫn có đó luôn kề vai, cùng tôi qua bao gian khó nhọc nhằn. Sẻ chia bao nước mắt bao tiếng cười, không khi nào xa cách- Những ca từ trong ca khúc Những Người Bạn Bên Tôi (bài hát truyền thống của lớp), luôn chứa đựng những khát khao, những hoài bão của tuổi trẻ, sẽ luôn vượt lên trên tất cả để chạm vào niềm chiến thắng, và một tình bạn đẹp không thể thiếu trong hành trình đó, hành trình của những ước mơ.
Các bạn MA3 ơi, hãy vứt bỏ những u sầu, những phiền muộn trong năm học vừa qua, để đón nhận những điều mới mẻ, tốt đẹp hơn trong năm mới, để tình bạn trong mỗi người ghi khắc mãi trong tim, dẫu tháng năm dài cuộc đời có đổi thay, nguyện bên nhau mãi không rời xa.
Một số hình ảnh trong buổi tiệc:
(Xem nhiều hình hơn trên Fanpage)